Dùng thuốc điều trị viêm đường tiết niệu khi mang thai

15:01 - 17/11/2021 Lượt xem: 390 Tác giả: Thu Hoàng

Viêm đường tiết niệu là bệnh lý thường khi mang thai. Nếu không chữa trị kịp thời có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm cho mẹ và thai nhi như: Tăng huyết áp, tiền sản giật, thiếu máu, viêm ối, chậm phát triển cho thai nhi, trẻ sinh ra thiếu cân, có thể sinh non…

1. Viêm đường tiết niệu ảnh hưởng đến thai kỳ như thế nào?

Những ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể của người mẹ:

  • Gây viêm nhiễm ở các cơ quan khác của cơ quan tiết niệu như thận, bàng quang, niệu quản,…
  • Viêm nhiễm lâu ngày ở ống niệu đạo có thể để lại những vết sẹo và gây hẹp niệu đạo.
  • Tình trạng nhiễm khuẩn ở các bộ phận khác của cơ quan tiết niệu có thể gây các biến chứng nguy hiểm: áp xe thận, nhiễm trùng máu, suy thận cấp,… đặc biệt là gây bể thận cấp.
  • Có thể xảy ra hiện tượng giật tiền sản và tán huyết cho người mẹ.

Ảnh hưởng đến thai nhi:

Người mẹ trong quá trình mang thai bị nhiễm trùng nước tiểu có thể gây nhiễm trùng sơ sinh cho trẻ. Nhiễm khuẩn đường tiết niệu cũng có thể dẫn đến hiện tượng sinh non hoặc gây thai chết trong tử cung.

viêm đường tiết niệu

2. Triệu chứng của viêm đường tiết niệu khi mang thai

  • Đau buốt hoặc nóng rát khi đi tiểu
  • Đi tiểu nhiều lần trong ngày
  • Đau xương chậu, đau lưng và bụng
  • Buồn nôn, nôn ói, thường dễ nhầm với ốm nghén
  • Run người, ớn lạnh, nóng sốt đổ mồ hôi.

3. Điều trị viêm đường tiết niệu bằng thuốc

  • Viêm đường tiết niệu không có triệu chứng lâm sàng:

Có khoảng 10%  người mang thai mắc chứng viêm đường tiết niệu  mà không có biểu hiện lâm sàng. Vì thế ngay từ lần khám thai đầu tiên, mẹ cần làm xét nghiệm nước tiểu và thực hiện định kỳ trong suốt quá trình mang thai. Tuy nhiên, đa số người mang thai ở tuyến dưới thường bỏ qua bước này. Nếu không điều trị sẽ dẫn đến viêm bàng quang (30%), viêm đài – bể thận cấp (50%).

Khi tìm thấy vi khuẩn, phụ sản cần điều trị bằng kháng sinh cho đến hết nhiễm khuẩn. Kháng sinh thường dùng là: ampicilin, erythromycin. Trường hợp kháng thuốc (khoảng 30% E.Colin kháng thuốc) thì dùng amoxicilin + acid clavulanic hay cephalexin hay nitrofurantion. Thường dùng nhất là ampicilin.

Một số thuốc kháng sinh sau được khuyến cáo không nên dùng vì những tác dụng không mong muốn có thể gây nên như: tetracycline (gây hại xương và mầm răng của thai), gây dị tật ở các ngón chân, ngón tay; fluoroquinolon (gây thoái hóa sụn khớp chịu lực); bactrim (trimethoprim + sufamethoxazol) sẽ gây tổn thương nặng đến công thức máu, gây thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ, gây hoại tử – li giải tế bào thượng bì (ít gặp xong nguy hiểm), có thể gây suy thận, suy gan nặng và tất cả những ảnh hưởng trên bà mẹ đều không có lợi cho sự phát triển của thai nhi (nhất là 3 tháng đầu thai kì), thậm chí gây khuyết tật thai (do gây thiếu acid folic).

  • Trường hợp viêm đường tiết niệu gây viêm bàng quang cấp (1,3% người mang thai gặp trường hợp này):

Thường có biểu hiện tiểu khó, tiểu nhiều lần nhưng không sốt. Nếu người bình thường viêm bàng quang chỉ dùng kháng sinh 3 ngày là khỏi thì người mang thai phải dùng đến 10 ngày (do khi mang thai, vi khuẩn có điều kiện thuận lợi để phát triển trong khi cơ thể lại giảm sức đề kháng với vi khuẩn). Nếu điều trị ngắn ngày rất dễ tái phát.

  • Trường hợp viêm đường tiết niệu gây viêm đài – bể thận cấp:

Biểu hiện sốt, lạnh run, nôn, đau hông, lưng, có hay không có rối loạn tiểu (tiểu nhiều lần, tiểu khó). Trường hợp này sản phụ rất dễ sinh non, choáng nhiễm khuẩn vì thế sản phụ không được điều trị tại nhà hay tuyến cơ sở mà cần được đưa ngay tới bệnh viện điều trị sớm. Có 2% người mang thai gặp trường hợp này và trong số người mắc có 23% bị tái phát.

Kháng sinh thường dùng là dạng viêm tĩnh mạch cefazolin hoặc gentamycin kết hợp với ampicilin ceftrixon. Kháng sinh tiêm tĩnh mạch được dùng ngay từ khi có biểu hiện lâm sàng rõ mà không chờ kết quả xét nghiệm, dùng liên tục cho đến khi hết sốt. Trừ một số trường hợp, còn đa số người bệnh đáp ứng có hiệu quả sau 24 – 48h. Nếu trường hợp đặc biệt (bị kháng thuốc hay có dị dạng đường niệu) thì cần dùng các giải pháp phức tạp hơn, cần chuyển lên tuyến có đủ điều kiện. Sau khi khỏi có thể dùng cephalexin hoặc nitrofurantoin thêm một thời gian nữa để tái phát.