Bị nhiễm virus herpes HSV có chữa được không?

08:26 - 04/04/2021 Lượt xem: 212

Nhiễm virus Herpes HSV để lâu, kéo dài, không điều trị sẽ chạy vào não, gây nên viêm não – viêm màng não dạng Herpes cấp tính, đe dọa trực tiếp đến tính mạng bệnh nhân.

1. Những biến chứng có thể gặp phải khi nhiễm virus Herpes HSV

Herpes là bệnh rất thường gặp, đã có thuốc đặc trị. Tuy nhiên do dấu hiệu nhận biết không rõ ràng nên nhiều người hay chủ quan, dùng các cách chữa mẹo… Khi không điều trị kịp thời, bệnh sẽ để lại các biến chứng như:

– Herpes bên trong miệng sẽ gây viêm nướu răng – miệng cấp tính, thường gặp nhất ở trẻ từ 1 đến 5 tuổi.

– Herpes ở mắt dễ dẫn đến những vết loét ở giác mạc, kết mạc, khiến người bệnh đau, chảy nước mắt và rất nhạy cảm với ánh sáng. Có thể dẫn đến mù lòa nếu không điều trị sớm.

– Herpes ở tay, chân sẽ gây ra hồng ban đa dạng. Đây là hiện tượng phát ban đối xứng, xuất hiện ở tay, chân với nhiều dạng sần; hoặc mảng chứ không chỉ mụn nước.

Nhiễm virus herpes kéo dài

– Herpes để lâu, kéo dài, không điều trị sẽ chạy vào não, gây nên viêm não – viêm màng não dạng Herpes cấp tính, đe dọa trực tiếp đến tính mạng bệnh nhân.

– Herpes còn để lại biến chứng khá nguy hiểm là phát ban dạng thủy đậu. Khi đó, các nốt mụn nước có dạng chốc lở, lan nhanh kèm theo các triệu chứng như sốt, ớn lạnh, khiến người bệnh cơ thể suy nhược. Bệnh diễn tiến trong khoảng 7 – 10 ngày, lan rộng và kết nối nhau thành những mảng loét trợt rộng hơn. Nếu không có phương án điều trị kịp thời, có nguy cơ dẫn đến bội nhiễm vi trùng Staphylococcus hay Streptococcus.

– Ngoài ra, herpes còn gây ra các biến chứng khác có thể là viêm gan, viêm đường hô hấp, viêm khớp. Trẻ sơ sinh, nếu nhiễm HSV-2 thì có tiên lượng xấu hơn nhiễm HSV-1. Các biến chứng trong giai đoạn tái phát thường ít xảy ra và nhẹ hơn sơ phát. Đặc biệt, HSV – 2 còn để lại các biến chứng khác nguy hiểm hơn như đau dây thần kinh ngoại biên, viêm màng não, viêm não, liệt dây thần kinh sọ não, nhức đầu.

2. Chẩn đoán bệnh virus Herpes HSV

Bị nhiễm virus herpes HSV có chữa được không?

Chẩn đoán nhiễm HSV thường là lâm sàng dựa trên các tổn thương đặc trưng. Để có thể chẩn đoán chính xác bệnh, các bác sĩ sẽ dựa vào các câu hỏi và tiến hành khám lâm sàng; hoặc tiến hành làm một số xét nghiệm như:

  • Xét nghiệm bệnh phẩm: tiến hành lấy mẫu dịch từ vết loét để kiểm tra trong vết thương có virus Herpes hay không.
  • Xét nghiệm máu: phân tích mẫu máu để sớm phát hiện kháng thể kháng HSV-1 và HSV-2.
  • Phản ứng chuỗi polymerase: Lấy một mẫu máu, dịch não tủy hoặc thử nghiệm DNA để phát hiện virus HSV.

3. Phương pháp điều trị virus Herpes HSV

Có nhiều phương pháp điều trị, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh. Điều trị bao gồm chống bội nhiễm tại thương tổn, chống virus. Điều trị thường là acyclovir, valacyclovir, hoặc famciclovir với nguyên tắc điều trị sau:

  • Điều trị cần được tiến hành càng sớm càng tốt. Thuốc chống virus sẽ làm giảm triệu chứng toàn thân, hạn chế sự lan rộng của HSV tại chỗ.
  • Nếu có bội nhiễm có thể dùng kháng sinh phổ rộng.
  • Nhiễm HSV sinh dục cần được tư vấn để điều trị cho cả 2 người có quan hệ tình dùng với nhau; phòng tránh lây ngược hoặc nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác.

Đối với viêm giác mạc, trifluridine tại chỗ

Điều trị nhiễm HSV ban đầu với thuốc, ngay cả khi được thực hiện sớm; không ngăn ngừa khả năng tái phát.

Nhiễm trùng da – niêm mạc

Nhiễm trùng độc lập thường không được điều trị không có kết quả.

pAcyclovir, valacyclovir, hoặc famciclovir có thể được sử dụng để điều trị nhiễm trùng, đặc biệt là khi nó là tiên phát. Nhiễm trùng HSV kháng acyclovir rất hiếm và chỉ xảy ra ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Foscarnet có thể có hiệu quả đối với các bệnh nhiễm khuẩn kháng acyclovir.

Nhiễm khuẩn thứ phát được điều trị bằng kháng sinh tại chỗ (ví dụ, mupirocin hoặc neomycin-bacitracin) hoặc, nếu nghiêm trọng, với kháng sinh toàn thân (ví dụ, beta-lactams kháng penicillinase). Thuốc giảm đau toàn thân có thể giúp ích.

Viêm lợi và viêm họng

Có thể cần giảm triệu chứng với thuốc tẩy tại chỗ (ví dụ, dyclonine, benzocaine, lidocaine nhớt). (chú thích: Không được nuốt phải Lidocaine vì nó gây mê cho túi họng, hầu họng, và có thể là phần đáy chậu. Trẻ em phải được theo dõi để biết dấu hiệu của ho khát) Các trường hợp nặng có thể được điều trị bằng acyclovir, valacyclovir, hoặc famciclovir.

Herpes môi đáp ứng với acyclovir uống và tại chỗ

Thời gian tái phát có thể giảm khoảng một ngày bằng cách sử dụng kem 1% của penciclovir trong 2 giờ, trong 4 ngày, bắt đầu trong giai đoạn khởi phát hoặc khi thương tổn đầu tiên xuất hiện. Độc tính dường như là tối thiểu. Famciclovir 1500 mg khi dùng một liều hoặc valacyclovir 2 g sau 12 giờ trong 1 ngày có thể được dùng để điều trị herpes môi tái phát. Các chủng kháng Acyclovir có khả năng đề kháng với penciclovir, famciclovir và valacyclovir. Kem Docosanol 10% có thể có hiệu quả khi sử dụng 5 lần / ngày.

Phòng khám sản phụ khoa 43 Nguyễn Khang – Cầu Giấy hay còn được gọi là phòng khám bác sĩ Vĩ. Là địa chỉ khám thai và khám các bệnh phụ khoa uy tín tại Hà Nội. Với bề dày hoạt động trên 15 năm cùng đội ngũ y bác sĩ giỏi; giàu kinh nghiệm đến từ các viện sản lớn như bệnh viện Phụ sản Trung ương, bệnh viện Phụ sản Hà Nội… sẽ theo dõi và thăm khám để các chị em yên tâm về thai kỳ và sức khỏe của mình. Để đặt lịch khám, quý khách vui lòng truy cập TẠI ĐÂY; hoặc liên hệ zalo: 0342.318.318 để được hướng dẫn.

Bài viết liên quan

Các mũi tiêm và mốc tiêm cho bà bầu trước và trong khi mang thai
Nguyên nhân chính khiến IVF thất bại
Những rủi ro có thể gặp khi làm phương pháp IVF
Nguyên nhân sinh non mẹ bầu cần lưu ý để có thai kỳ khỏe mạnh
Các bước thực hiện xét nghiệm tinh dịch đồ